Tên gọi của nhiều nguyên tố tự nói về lai lịch của mình: hyđro có nghĩa là
“sinh ra nước”; cacbon có nghĩa là “sinh ra than”; menđelevi, enstani,
fecmi, curi, kursatovi là để tưởng niệm các nhà bác học xuất sắc; europi,
amerixi, franxi, gecmani, califoni là xuất phát từ những địa danh. Nhưng
cũng có những nguyên tố mà tên gọi của chúng, như người ta thường nói,
cần phải bàn luận. Vonfram vốn thuộc nguyên tố như vậy.
Ngay cả việc định nghĩa của từ “vonfram” - nước bọt chó sói - cũng chưa
chắc đã giải thích được nguồn gốc của tên gọi này. Thực ra, liệu cái
nguyên tố thuộc nhóm IV của hệ thống tuần hoàn Đ. I. Menđelêep có thể có
cái gì chung với con thú rừng dữ tợn ấy không?
... Từ thời cổ xưa, các nhà luyện kim đã lắm phen vấp phải một hiện tượng
quái lạ: thỉnh thoảng, do những nguyên nhân hết sức khó hiểu, lượng thiếc
nấu từ quặng ra bị giảm sút ghê gớm. Vì các chỉ tiêu kinh tế -kỹ thuật của
việc nấu luyện không thể không làm cho tổ tiên chúng ta lo lắng nên họ bắt
đầu chăm chú theo dõi quặng thiếc đưa vào lò nấu luyện. Chẳng mấy chốc,
họ đã nhận thấy một quy luật: điều kiện phiền toái nảy sinh khi mà trong
quặng có những hòn đá nặng màu nâu hoặc màu xám hơi vàng. Kết luận đó
tự nói lên một điều: hòn đá đã "ngốn thiếc như chó sói ngốn thịt cừu” vậy.
Và cứ như thế thì cứ gọi thứ đá độc ác này là “nước bọt chó sói” -
vonframit. Ở một số nước khác, chẳng hạn, ở Thụy Điển, cũng gặp thứ đá
tương tự nó được gọi là “tungsten”, nghĩa là “đá nặng”.
Việc phát minh ra vonfram gắn liền với tên tuổi của nhà hóa học nổi tiếng
người Thụy Điển Carl Vinhen Sele (Karl Wilhelm Scheele). Vốn là một
dược sư, ông đã làm nhiều việc tại nhiều phòng bào chế thuốc của nhiều
thành phố, tại đó, ông cũng tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu khoa học. Năm
1871, Sele đã xác định được rằng, tungsten (sau này được gọi là seelit) là
muối của một axit mà thời bấy giờ chưa ai biết, và ông đã tách được từ nó
ra một thứ bột trắng - đó là oxit của nguyên tố mới này. Nhưng rồi công
việc của ông cũng không đi xa hơn thế nữa.
“sinh ra nước”; cacbon có nghĩa là “sinh ra than”; menđelevi, enstani,
fecmi, curi, kursatovi là để tưởng niệm các nhà bác học xuất sắc; europi,
amerixi, franxi, gecmani, califoni là xuất phát từ những địa danh. Nhưng
cũng có những nguyên tố mà tên gọi của chúng, như người ta thường nói,
cần phải bàn luận. Vonfram vốn thuộc nguyên tố như vậy.
Ngay cả việc định nghĩa của từ “vonfram” - nước bọt chó sói - cũng chưa
chắc đã giải thích được nguồn gốc của tên gọi này. Thực ra, liệu cái
nguyên tố thuộc nhóm IV của hệ thống tuần hoàn Đ. I. Menđelêep có thể có
cái gì chung với con thú rừng dữ tợn ấy không?
quái lạ: thỉnh thoảng, do những nguyên nhân hết sức khó hiểu, lượng thiếc
nấu từ quặng ra bị giảm sút ghê gớm. Vì các chỉ tiêu kinh tế -kỹ thuật của
việc nấu luyện không thể không làm cho tổ tiên chúng ta lo lắng nên họ bắt
đầu chăm chú theo dõi quặng thiếc đưa vào lò nấu luyện. Chẳng mấy chốc,
họ đã nhận thấy một quy luật: điều kiện phiền toái nảy sinh khi mà trong
quặng có những hòn đá nặng màu nâu hoặc màu xám hơi vàng. Kết luận đó
tự nói lên một điều: hòn đá đã "ngốn thiếc như chó sói ngốn thịt cừu” vậy.
Và cứ như thế thì cứ gọi thứ đá độc ác này là “nước bọt chó sói” -
vonframit. Ở một số nước khác, chẳng hạn, ở Thụy Điển, cũng gặp thứ đá
tương tự nó được gọi là “tungsten”, nghĩa là “đá nặng”.
Việc phát minh ra vonfram gắn liền với tên tuổi của nhà hóa học nổi tiếng
người Thụy Điển Carl Vinhen Sele (Karl Wilhelm Scheele). Vốn là một
dược sư, ông đã làm nhiều việc tại nhiều phòng bào chế thuốc của nhiều
thành phố, tại đó, ông cũng tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu khoa học. Năm
1871, Sele đã xác định được rằng, tungsten (sau này được gọi là seelit) là
muối của một axit mà thời bấy giờ chưa ai biết, và ông đã tách được từ nó
ra một thứ bột trắng - đó là oxit của nguyên tố mới này. Nhưng rồi công
việc của ông cũng không đi xa hơn thế nữa.
Comments